Đời sống và vai trò của người phụ nữ Mường trong gia đình
Giới
thiệu bài viết “Đời sống và vai trò của người phụ nữ Mường trong gia đình”
Tác
giả: Hà Thị Mỹ Hiệp
Hội
nghị khoa học nữ lần thứ 5, Hà Nội, năm 2000
Người
Mường là một dân tộc sống ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, là thành viên của
cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.
Người
Mường nói tiếng Mường, ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường trong ngữ chi Việt thuộc
ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.
Người
Mường tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.
Dân số tại Việt Nam theo kết quả Điều tra dân số năm 2009 là 1.268.963 người.
Người
Mường có quan hệ rất gần với người Kinh. Các nhà dân tộc học đưa ra giả thuyết
người Mường và người Kinh có nguồn gốc chung là người Việt-Mường cổ. Thời kỳ
ngàn năm bắc thuộc thì bộ phận người cư trú ở miền núi ít bị Hán hóa, bảo tồn lối
sống đến nay là người Mường, còn bộ phận ở trung du và đồng bằng có sự hòa trộn
với người phương bắc về văn hóa và nhân chủng thì thành người Kinh. Quá trình
chia tách Mường - Kinh, xác định theo ngôn ngữ học thì diễn ra từ Tk 7-8 và kết
thúc vào Tk 12, thời Nhà Lý.
Trong
xã hội truyền thống, người phụ nữ hầu như không có quyền hành gì lớn trong gia
đình. Khi còn nhỏ, họ chịu sự quản lý của cha mẹ hoặc anh cả. Khi có chồng, mặc
dù là con trong gia đình, nhưng họ không được tham dự vào việc chia tài sản của
gia đình bố mẹ đẻ. Xã hội Mường xưa còn quy định lệ thu lụy (còn gọi là thu lụt
- thu lụyk) áp dụng cho những gia đình sinh toàn con gái, lúc cha mẹ qua đời,
ruộng, đất bị thu hồi lại chia cho nhà khác. Không chỉ thu riêng mảnh đất, nhà
lang còn thu cả con dao của người đã khuất. Người phụ nữ khi lấy chồng đồng
nghĩa với việc bước vào cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc chồng, không có quyền
bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Bên trong ngôi nhà cũng có sự phân
chia khu vực rõ ràng cho các giới. Gian khách (gian voóng) để bàn thờ tổ tiên,
còn là nơi tiếp khách, chỗ ngủ của nam giới. Phụ nữ trong thời gian mang thai, ở
cữ tuyệt đối không được bước chân đến gian này. Họ bị coi là những người không
được sạch sẽ, dễ làm uế tạp bàn thờ.
Trên
thực tế, người phụ nữ lại có đóng góp nhiều mặt vào cuộc sống gia đình và lao động
sản xuất. Theo phân công lao động tự nhiên, nam giới thường đảm nhiệm những
công việc nặng nhọc nhất như: cày bừa, chặt cây, chế tạo công cụ sản xuất, xây
dựng nhà ở và các công việc đối ngoại. Khi hoàn thành công việc họ có thể nghỉ
ngơi thanh thản. Trong khi đó, phụ nữ ngoài việc tham gia lao động sản xuất, họ
còn phải làm nhiều việc liên quan đến cuộc sống gia đình. Thực tế khối lượng
công việc mà phụ nữ đảm nhận không hề ít so với nam giới.
Sản
xuất nông nghiệp, dù loại hình canh tác chính là làm ruộng nước, song họ còn
làm nương rẫy, ở mỗi công đoạn từ phát nương, nhổ mạ, chăm sóc đến gặt hái đều
có sự tham gia của phụ nữ. Vào thời vụ, mỗi ngày người phụ nữ Mường phải trực
tiếp tham gia lao động sản xuất 11 - 12 giờ, còn thời gian lao động trung bình
trong năm khoảng 10 giờ/ngày. Trong lao động thủ công nghiệp, phụ nữ cũng giữ
vai trò chính như dệt, may...
Công
việc nội trợ, phụ nữ đóng vai trò chủ yếu, họ thức khuya, dậy sớm lo cơm nước,
giặt giũ. Phụ nữ Mường ra khỏi nhà thường đeo chiếc ớp (giỏ bằng tre đan) bên
hông, để đựng rau rừng. Chiếc ớp không chỉ là vật dụng quan trọng trong cuộc sống
mà nó còn có giá trị làm duyên dáng thêm cho vẻ đẹp phụ nữ. Cách phân công đó gắn
liền với nội dung xác định về vị trí, quyền lực của người cha, người mẹ trong
gia đình và ngoài xã hội - nam ngoại, nữ nội.
Mời
các bạn quan tâm đọc tiếp bài viết tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/25796
Nhận xét
Đăng nhận xét